Các mặt trận Chiến_tranh_Hoa_Kỳ–Anh_Quốc_(1812)

Chiến tranh được tiến hành trên ba mặt trận:

Mặt trận Đại Tây Dương

Các hoạt động tàu chiến đơn lẻ

Bản đồ chuyến đi đầu tiên của tàu USS Chesapeake trong cuộc chiến tranh 1812. Các đường biên giới lấy theo hiện tại.

Năm 1812, Hải quân Hoàng gia Anh sở hữu một lực lượng lớn nhất thế giới, với hơn 600 tàu tuần dương thường trực, cộng với một số tàu thuyền khác nhỏ hơn. Mặc dù hầu hết trong số này đã tham gia cuộc phong tỏa hải quân Pháp và bảo vệ nền thương mại Anh trước những con tàu cướp biển (chủ yếu là của Pháp), nhưng Hải quân Hoàng gia vẫn có 85 tàu thuyền tại vùng biển châu Mỹ.[60] Ngược lại, Hải quân Hoa Kỳ chỉ bao gồm 8 tàu frigate, 14 tàu tuần tra và thuyền hai buồm nhỏ hơn, và không có tàu chiến tuyến nào. Tuy nhiên có một số tàu frigate của Hoa Kỳ lớn và mạnh hơn nhiều so với các tàu cùng lớp với chúng. Trong khi một tàu frigate tiêu chuẩn của Anh vào thời kỳ đó có 38 đại bác, với khẩu đội chính gồm các đại bác 18 pound (gần 8,2 kg), thì các tàu USS Constitution, USS President, USS United States được trang bị đến 44 đại bác và có khả năng mang theo 56 khẩu, với khẩu đội chính là những khẩu đại bác nặng 24 pound (gần 11 kg).[61]

Tàu USS Constitution đánh bại tàu HMS Guerriere, một sự kiện quan trọng trong chiến tranh.

Chiến lược của Anh là bảo vệ các tàu buôn của họ đến và đi từ Halifax, Nova ScotiaTây Ấn, đồng thời tiến hành phong tỏa các cảng lớn để giới hạn nền thương mại của Hoa Kỳ. Do bị áp đảo về số lượng, Hoa Kỳ tập trung vào việc gây rối loạn cho đối phương bằng chiến thuật đánh-và-chạy, chẳng hạn như việc bắt giữ chiến lợi phẩm và chỉ tiến công các tàu của Hải quân Hoàng gia Anh khi có điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, vào những ngày đầu sau khi chính thức tuyên chiến, có hai đội tàu nhỏ đã khởi hành: tàu USS President và tàu tuần tra USS Hornet do Phó Đề đốc John Rodgers chỉ huy; các tàu USS United States, USS CongressUSS Argus do thuyền trưởng Stephen Decatur chỉ huy. Số tàu này ban đầu tập hợp thành một đơn vị dưới quyền của Rodgers, với dự định buộc Hải quân Hoàng gia Anh tập trung vào lực lượng của mình để tránh cho các bộ phận tàu đơn độc khác khỏi bị lực lượng hùng hậu của Anh bắt giữ. Có một số lớn các tàu buôn Hoa Kỳ vẫn đang trên đường về nước, và nếu Hải quân Hoàng gia Anh tập trung lại thì họ không thể trông chừng tất cả các cảng biển của Hoa Kỳ được. Chiến lược của Rodgers đã có hiệu quả, nó khiến Hải quân Hoàng gia Anh tập hợp hầu hết các tàu frigate của mình dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Philip Broke bên ngoài cảng New York và để cho nhiều tàu Hoa Kỳ về nước an toàn. Tuy nhiên, chuyến hành trình của ông ta lại chỉ bắt được có 5 tàu buôn nhỏ, từ đó cho đến hết cuộc chiến Hoa Kỳ không bao giờ còn cho tập trung nhiều hơn hai hoặc ba tàu với nhau thành một đơn vị nữa.

Trong khi đó, tàu USS Constitution do Thuyền trưởng Isaac Hull chỉ huy đã khởi hành từ vịnh Chesapeake ngày 12 tháng 7. Ngày 17 tháng 7, đội tàu Anh của Broke rời khỏi New York đi lùng bắt, nhưng chiếc Constitution trốn tránh được sau hai ngày săn đuổi. Sau khi ghé cảng Boston một thời gian ngắn để tiếp tế nước, ngày 19 tháng 8, tàu Constitution đã giao chiến với tàu HMS Guerriere. Sau trận đánh kéo dài 35 phút, Guerriere bị đánh bại, bị bắt giữ và sau đó bị đốt cháy. Hull trở về Boston mang theo tin tức về chiến thắng đầy ý nghĩa này, và chiếc USS Constitution có được danh hiệu "Old Ironsides" (tạm dịch: Lão già Phi thường). Ngày 25 tháng 10, tàu USS United States do Thuyền trưởng Decatur chỉ huy đã bắt giữ tàu HMS Macedonian của Anh, rồi sau đó mang nó về cảng.[62] Đến cuối tháng, tàu Constitution tiến về phía nam, lúc này được đặt dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng William Bainbridge. Ngày 29 tháng 12, ở ngoài khơi Bahia, Brasil, nó đụng độ với tàu HMS Java của Anh. Sau một trận đánh kéo dài ba tiếng đồng hồ, chiếc Java hạ cờ đầu hàng và bị đốt cháy sau khi thấy rằng không thể cứu chữa được. Ngược lại, chiếc USS Constitution hầu như không bị hư hại trong trận chiến.

Những thắng lợi mà ba tàu lớn của Hoa Kỳ thu được đã buộc nước Anh phải đóng thêm 5 tàu frigate hạng nặng với 40 khẩu đại bác 24 pound[63] và hai tàu frigate "đóng dàn cột" (spar-decked) 60 đại bác (tàu HMS LeanderHMS Newcastle[64]) đồng thời cắt bớt số boong của 3 tàu chiến tuyến cũ 74 đại bác khác để chuyển chúng thành tàu frigate hạng nặng.[65] Hải quân Hoàng gia Anh lúc này đã thừa nhận rằng còn có các yếu tố quan trọng khác ngoài kích thước lớn hơn và đại bác nặng hơn. Các tàu tuần tra và thuyền buồm của Hải quân Hoa Kỳ cũng giành được nhiều chiến thắng trước các tàu Hải quân Hoàng gia Anh có sức mạnh tương đương. Trong khi các tàu Hoa Kỳ có kinh nghiệm và thủy thủ đoàn được huấn luyện tốt, thì quy mô to lớn của Hải quân Hoàng gia bị quá tải đồng nghĩa với việc có nhiều tàu Anh bị thiếu nhân lực và chất lượng trung bình của thủy thủ đoàn bị sút kém, ngoài ra các nhiệm vụ liên miên trên biển trong cuộc chiến ở Bắc Mỹ cũng gây ảnh hưởng đến công tác đào tạo và rèn luyện của họ.[66]

Tàu HMS Shannon dẫn chiếc USS Chesapeake bị bắt của Hoa Kỳ vào cảng Halifax, Nova Scotia (1813)

Việc bắt giữ ba tàu frigate của Anh đã kích thích người Anh nỗ lực lớn hơn. Thêm nhiều tàu khác được triển khai trên bờ biển Hoa Kỳ và cuộc phong tỏa được xiết chặt. Ngày 1 tháng 6 năm 1813, ngoài khơi cảng Boston, tàu USS Chesapeake do thuyền trưởng James Lawrence chỉ huy đã bị tàu HMS Shannon của thuyền trưởng Anh Philip Broke bắt sống. Lawrence bị tử thương và đã thét lên câu nói nổi tiếng: "Đừng bỏ tàu! Hãy giữ vững, mọi người!" (Don't give up the ship! Hold on, men!).[66] Mặc dù tàu Chesapeake chỉ có sức mạnh ngang ngửa một tàu frigate trung bình của Anh và thủy thủ đoàn mới chỉ mới tập hợp được vài tiếng đồng hồ trước trận chiến, nhưng báo chí Anh đã phản ứng trước sự kiện này với một sự kích động gần như cuồng loạn rằng chuỗi các chiến thắng của Hoa Kỳ đã kết thúc.[67] Cũng cần lưu ý rằng chiến thắng này là một trong những trận đánh riêng lẻ đẫm máu nhất theo tỷ lệ được ghi nhận vào thời đại thuyền buồm, với nhiều thương vong hơn chiếc HMS Victory đã phải chịu trong 4 giờ chiến đấu tại Trafalgar. Thuyền trưởng Lawrence đã bị giết chết còn thuyền trưởng Broke cũng bị thương nặng đến mức không bao giờ có thể giữ quyền chỉ huy tàu biển.[66]

Thuyền trưởng David Porter của Hải quân Hoa Kỳ

Trong tháng 1 năm 1813, chiếc USS Essex của Hoa Kỳ do Thuyền trưởng David Porter chỉ huy đã khởi hành tiến vào Thái Bình Dương trong một nỗ lực nhằm quấy rối các tàu Anh. Lúc này, có nhiều tàu săn cá voi Anh mang theo "thư đóng dấu" (letter of marque) cho phép họ tấn công và bắt giữ các tàu săn cá voi Hoa Kỳ, khiến cho ngành kinh doanh này gần như bị hủy diệt.[68] Tàu Essex đã ngăn chặn hành động này. Nó gây ra thiệt hại đáng kể đến quyền lợi của Anh cho đến khi bị bắt ở ngoài khơi Valparaíso, Chile bởi tàu HMS Phoebe và thuyền buồm HMS Cherub ngày 28 tháng 3 năm 1814.[69]

Lớp thuyền buồm Cruizer hạng 6 của Anh đã không chống đỡ được với các thuyền buồm chiến 3 đến 5 cột của Hoa Kỳ. Các tàu USS HornetUSS Wasp được đóng trước chiến tranh là những tàu thuyền rất mạnh, và lớp tàu Frolic được đóng trong chiến tranh thậm chí còn mạnh hơn (tuy nhiên chiếc USS Frolic đã bị bắt sống bởi một tàu frigate và một thuyền buồm dọc của Anh). Những chiếc thuyền hai cột buồm Anh hay bị trúng đạn vào các thiết bị nặng nề hơn so với thuyền có 3 đến 5 cột buồm của Hoa Kỳ, do các tàu này của Hoa Kỳ có thể bỏ buồm trong tác chiến và như vậy có lợi thế về mặt cơ động.[70]

Sau những tổn thất ban đầu, Bộ Hải quân Anh đã xây dựng một phương sách mới theo đó cứ ba tàu frigate hạng nặng của Hoa Kỳ sẽ chỉ bị tấn công bằng một tàu chiến tuyến hoặc bằng các tàu nhỏ hơn trong hợp thành một đội tàu mạnh. Một ví dụ cho phương sách này là việc bắt giữ tàu USS President do một đội bốn tàu frigate của Anh thực hiện vào tháng 1 năm 1815. Tuy nhiên, một tháng sau, tàu USS Constitution vẫn xoay xở tấn công và bắt được hai tàu chiến nhỏ đi thành đội của Anh là HMS CyaneHMS Levant.[71]

Cuộc phong tỏa

Cuộc phong tỏa các hải cảng của Hoa Kỳ sau đó đã thắt chặt đến mức mà hầu hết các tàu buôn và tàu hải quân Hoa Kỳ đều bị kẹt trong cảng. Các tàu USS United States và USS Macedonian đã bị khóa chặt và phải nằm tại New London, Connecticut cho đến hết chiến tranh. Có một số tàu buôn đóng căn cứ tại châu Âu hoặc châu Á và tiếp tục hoạt động. Các tàu khác, chủ yếu là từ New England, đã được cấp giấy phép thương mại của Đô đốc John Borlase Warren, tổng tư lệnh Anh tại trạm hải quân Bắc Mỹ trong năm 1813. Điều này cho phép quân đội của WellingtonTây Ban Nha có thể nhận được hàng hóa từ châu Mỹ và trợ giúp tài chính cho phe đối lập chống chiến tranh tại New England. Các phong tỏa đã khiến cho lượng hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ giảm từ 130 triệu đô la năm 1807 xuống còn 7 triệu trong năm 1814.[72]

Hoạt động của các tàu cướp biển Hoa Kỳ (một số trong đó thuộc Hải quân Hoa Kỳ, nhưng hầu hết đều là của tư nhân) là rất rộng rãi. Họ vẫn tiếp tục cho đến khi kết thúc chiến tranh và chỉ bị ảnh hưởng một phần trước những hành động truy bắt nghiêm ngặt của các đội tàu hộ tống thuộc Hải quân Hoàng gia Anh. Một trong những ví dụ về sự táo bạo của các tàu tuần dương Hoa Kỳ là những vụ cướp phá ngay trong vùng biển nhà của Anh do tàu USS Argus thực hiện. Tàu này cuối cùng đã bị bắt ngoài khơi mũi đất St David's thuộc xứ Wales bởi tàu HMS Pelican của Anh vào ngày 14 tháng 8 năm 1813. Tổng cộng có 1.554 tàu thuyền đã được tuyên bố là bị các tàu hải quân và tàu cướp biển Hoa Kỳ bắt giữ, 1.300 trong số đó là do tàu cướp biển.[73][74][75] Tuy nhiên, hãng bảo hiểm Lloyd's của London đã báo cáo rằng chỉ có 1.175 tàu Anh bị bắt, 373 trong số đó bị bắt lại, và tổng cộng tổn thất là 802.[76]

Là căn cứ giám sát cuộc phong tỏa của Hải quân Hoàng gia, thành phố Halifax đã hưởng lợi rất nhiều trong chiến tranh. Các tàu cướp biển của Anh đóng căn cứ tại đây đã tịch thu nhiều tàu của Pháp và Hoa Kỳ và đem bán chiến lợi phẩm của họ ở Halifax.

Cuộc chiến tranh này là lần cuối cùng Anh cho phép các tàu cướp biển hoạt động, do hoạt động này được nhìn nhận là không có lợi về mặt chính trị và đang dần mất ý nghĩa trong việc duy trì uy thế hải quân của Anh. Đây là lời cáo chung của giới cướp biển Bermuda, những người đã trở lại hành nghề mạnh mẽ kể từ sau khi có các vụ kiện buộc họ phải chấm dứt hoạt động hai thập kỷ trước đó. Tổng cộng các tàu tuần tra tốc độ cao của Bermuda đã bắt được 298 tàu địch, còn Hải quân Anh và các tàu cướp biển ở khu vực giữa Ngũ Đại HồTây Ấn bắt giữ được 1.593 tàu.[77]

Bờ biển Đại Tây Dương

Bờ biển Đại Tây Dương và miền Đông Hoa Kỳ

Mải tập trung truy đuổi các tàu cướp biển Hoa Kỳ khi cuộc chiến bắt đầu, các lực lượng hải quân Anh đã gặp một số khó khăn trong việc phong tỏa toàn bộ bờ biển của Hoa Kỳ. Chính phủ Anh, cần có nguồn thực phẩm của Hoa Kỳ cho quân đội tại Tây Ban Nha, đã được lợi trong việc quan hệ thương mại với New England, nên ban đầu họ đã cố gắng không tiến hành phong tỏa New England. Sông Delawarevịnh Chesapeake được tuyên bố là trong tình trạng phong tỏa vào ngày 26 tháng 12 năm 1812.

Đến tháng 11 năm 1813, cuộc phong tỏa được mở rộng ra bờ biển phía nam Narragansett và lan ra toàn bộ bờ biển Hoa Kỳ từ ngày 31 tháng 5 năm 1814. Trong khi đó, việc buôn bán bất hợp pháp đã được thực hiện bằng những vụ bắt giữ hàng có thông đồng giữa các thương nhân Hoa Kỳ và sĩ quan Anh, sau đó tàu Hoa Kỳ được tráo đổi sang cờ của nước trung lập. Cuối cùng, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải ra lệnh ngừng hoạt động buôn bán trái phép, và điều này chỉ làm trầm trọng thêm tình tình thương mại căng thẳng của đất nước. Sức mạnh áp đảo của hạm đội Anh cho phép họ kiểm soát vịnh Chesapeake và tấn công phá hủy nhiều bến tàu và bến cảng của Hoa Kỳ.

Ngoài ra, các viên tư lệnh của hạm đội phong toả, đóng tại xưởng đóng tàu Bermuda, đã được chỉ thị phải khuyến khích nô lệ Hoa Kỳ bỏ trốn bằng cách cho họ tự do, cũng giống như đã làm trong thời kỳ Chiến tranh Cách mạng. Hàng ngàn người nô lệ da đen đã trốn đi cùng với gia đình và được tuyển vào các Tiểu đoàn Thuộc địa số 3 của Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh tại đảo Tangier bị chiếm đóng trong vịnh Chesapeake. Thêm một công ty của thủy quân lục chiến thuộc địa đã được thiết lập tại xưởng đóng tàu Bermuda, nơi nhiều nô lệ được giải phóng - cả đàn ông, đàn bà và trẻ em - được tá túc và có việc làm, họ được giữ như một lực lượng phòng thủ trong trường hợp bị tấn công. Những người cựu nô lệ đã chiến đấu cho nước Anh trên khắp mặt trận Đại Tây Dương, trong đó có cả cuộc tấn công vào Washington D.C và chiến dịch tại Louisiana, và hầu hết sau đó được tuyển lại vào các trung đoàn Tây Ấn của Anh hoặc định cư tại Trinidad vào tháng 8 năm 1816, tại đó 700 cựu lính thủy đánh bộ đã được cấp đất sinh sống. Nhiều nô lệ Hoa Kỳ được giải phóng khác đã được tuyển dụng trực tiếp vào các trung đoàn Tây Ấn hay vào những đơn vị Lục quân Anh mới được thành lập. Vài nghìn nô lệ được giải phóng sau này đã được người Anh cho định cư tại Nova Scotia.

Chiến dịch vịnh Chesapeake

George Cockburn.

Vị trí chiến lược của vịnh Chesapeake nằm gần thủ đô Hoa Kỳ đã khiến nó trở thành một mục tiêu ưu tiên số một đối với người Anh. Từ tháng 3 năm 1813, một đội tàu dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc George Cockburn đã bắt đầu phong tỏa vịnh và tấn công các thị trấn dọc theo bờ vịnh từ Norfolk đến Havre de Grace.

Ngày 4 tháng 7 năm 1813, Joshua Barney, một anh hùng hải quân thời Chiến tranh giành độc lập, đã thuyết phục Bộ Hải quân xây dựng Tiểu hạm đội Vịnh Chesapeake, một đội tàu với 20 sà lan để phòng thủ vịnh. Thành lập vào tháng 4 năm 1814, đội tàu này đã nhanh chóng bị dồn vào sông Patuxent, và mặc dù thành công trong việc quấy rối Hải quân Hoàng gia Anh, nhưng nó không đủ sức ngăn cản chiến dịch tấn công của Anh mà cuối cùng dẫn đến việc đốt cháy Washington.[78] Cuộc viễn chinh này, do Cockburn và Tướng Robert Ross chỉ huy, được tiến hành trong các ngày từ 19 đến 29 tháng 8 năm 1814, là kết quả của chính sách cứng rắn của Anh trong năm 1814 (mặc dù lúc này đại diện hai bên đã gặp nhau ở Gent để bắt đầu đàm phán hòa bình). Trong lúc này, Đô đốc Alexander Cochrane đã đến thay thế vị trí tổng tư lệnh của Đô đốc Warren, cùng với lực lượng tăng viện và mệnh lệnh phải đảm bảo buộc Hoa Kỳ vào một nền hòa bình có lợi cho Anh.

Quân Anh đánh chiếm thành phố Washington. Tranh khắc năm 1814.

Tổng thống đốc của Bắc Mỹ thuộc Anh, George Prévost đã viết thư cho các vị đô đốc tại Bermuda, kêu gọi thực hiện một hành động để trả đũa các cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Canada, nhất là việc đốt cháy thành phố York (nay là Toronto) năm 1813. Một lực lượng 2.500 binh sĩ dưới quyền chỉ huy của tướng Ross đã đến Bermuda trên một đội tàu đặc nhiệm của Hải quân Hoàng gia Anh, bao gồm tàu HMS Royal Oak, 3 tàu frigate, 3 tàu tuần tra và 10 tàu khác.[79] Được giải phóng khỏi cuộc Chiến tranh Bán đảo tại Tây Ban Nha sau chiến thắng trước Napoleon, người Anh dự định dùng lực lượng này để tiến hành các cuộc tấn công nghi binh dọc theo bờ biển MarylandVirginia. Để đáp ứng yêu cầu của Prévost, họ lại quyết định huy động lực lượng này, cùng với các đơn vị hải quân và bộ đội hiện có trong khu vực để tấn công Washington, D.C.[80]

Ngày 24 tháng 8, Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ John Armstrong, Jr. đã khẳng định rằng người Anh sẽ tấn công Baltimore chứ không phải Washington, ngay cả khi lục quân Anh đã chắc chắn đang trên đường đến thủ đô. Lực lượng dân quân thiếu kinh nghiệm của Hoa Kỳ, tập hợp tại Bladensburg, Maryland để bảo vệ thủ đô, đã bị đánh tan trong trận Bladensburg, mở toang con đường đến Washington. Trong khi Đệ nhất Phu nhân Dolley Madison đem các đồ vật có giá trị sơ tán khỏi Nhà Trắng, thì Tổng thống James Madison cũng buộc phải chạy trốn về Virginia.[81]

Các viên chỉ huy Anh đã ăn bữa ăn được chuẩn bị cho Tổng thống trước khi phóng hỏa đốt cháy Nhà Trắng; và tinh thần người Hoa Kỳ đã suy sụp xuống mức thấp nhất. Tối hôm đó, một cơn bão lớn quét qua thành phố Washington và gây nên thiệt hại còn nhiều hơn, nhưng lại giúp dập tắt ngọn lửa bằng những cơn mưa xối xả.[82][83] Các xưởng đóng tàu đã bị chính các quan chức Hoa Kỳ ra lệnh đốt cháy để ngăn không cho người Anh chiếm giữ các tàu bè và quân nhu.[81][83] Ngay sau khi cơn bão kết thúc, và sau khi đã phá hủy các tòa nhà công cộng trong thành phố, bao gồm cả phủ Tổng thống và Ngân khố Hoa Kỳ, quân Anh đã rời khỏi Washington, D.C. và tiến về đánh chiếm Baltimore, một bến cảng sầm uất và một căn cứ trọng yếu của các tàu cướp biển Hoa Kỳ. Trận Baltimore sau đó bắt đầu khi quân Anh đổ bộ lên North Point, tại đó họ đụng độ với dân quân Hoa Kỳ. Một cuộc đọ súng bắt đầu, cả hai bên đều có thương vong. Tướng Ross bị một tay bắn tỉa giết chết trong khi đang cố gắng củng cố binh lính (tay bắn tỉa đó ngay sau đó cũng bị bắn chết) và người Anh rút lui. Quân Anh còn cố gắng tấn công Baltimore bằng đường biển trong ngày 13 tháng 9, nhưng đã không thể hạ được đồn McHenry tại lối vào cảng Baltimore.

Cuộc pháo kích đồn McHenry, ngày 13 tháng 9 năm 1814.

Trong thực tế, trận đồn McHenry không phải là một trận đánh thực sự. Đại bác của Anh có tầm bắn xa hơn của Hoa Kỳ, và họ đã pháo kích vào trong đồn mà không bị bắn trả. Kế hoạch của Anh là tiến hành phối hợp với một lực lượng đổ bộ khác, nhưng với khoảng cách đó thì việc phối hợp là không thể, nên họ đã bỏ cuộc và rút lui. Đồn McHenry đã bị pháo kích trong suốt 25 tiếng đồng hồ. Toàn bộ đèn ở Baltimore đã bị tắt đi trong đêm có cuộc tấn công, và nguồn sáng duy nhất phát ra là từ các quả đạn pháo nổ bên trên đồn McHenry, soi rõ lá cờ vẫn tung bay phía trên pháo đài. Cuộc bảo vệ pháo đài đã truyền cảm hứng cho luật sư Francis Scott Key viết một bài thơ mà sau này được phổ nhạc để thành bài Quốc ca Hoa Kỳ "The Star-Spangled Banner" (Lá cờ ánh sao chói lọi).

Không có một hoạt động nào trong chiến dịch Chesapeake được xem là xứng đáng với một huân huy chương của lục quân Anh (Đồn Detroit, Chateauguay, và Chrysler's Farm đã trở thành tên gọi ba loại huân chương trong chiến tranh), nhưng những người tham gia cuộc tấn công Washington đã được Bộ Chiến tranh Anh thưởng tiền.[84] Ngoài ra, tiền thưởng phát sinh từ số chiến lợi phẩm chiếm được từ cuộc viễn chinh sông Patuxent, đồn Washington và Alexandria, trong thời gian từ 22 đến 29 tháng 8 năm 1814 đã được phát trong tháng 11 năm 1817. Ba đại đội thuộc Quân đoàn Thủy quân Lục chiến Thuộc địa cũng nằm trong số những người nhận thưởng. Phần thưởng hạng nhất trị giá 183 bảng, 9 si-linh và 1¾ xu; còn phần thưởng hạng sáu, mà một lính thủy đánh bộ bình thường cũng chắc chắn được nhận, trị giá một bảng 9 si-linh 3½ xu.[85] Đợt thưởng thứ hai và cũng là cuối cùng là vào tháng 5 năm 1819. Phần thưởng hạng nhất trị giá 42 bảng 13 si-linh 10¾ xu; phần thưởng hạng sáu trị giá 9 si-linh 1¾ xu.[86]

Maine

Maine, khi đó là một phần của Massachusetts, là một căn cứ cho việc buôn lậu và buôn bán bất hợp pháp giữa Hoa Kỳ và Anh. Cho đến năm 1813 khu vực này nhìn chung vẫn yên tĩnh ngoại trừ các hoạt động cướp biển gần bờ. Tháng 9 năm 1813, đã có một sự kiện hải quân đáng chú ý khi thuyền Enterprise của Hải quân Hoa Kỳ tấn công và bắt được tàu Boxer của Hải quân Hoàng gia Anh ngoài khơi Pemaquid Point.[87]

Đến tháng tháng 9 năm 1814, từ căn cứ ở Halifax, Nova Scotia, John Coape Sherbrooke đã dẫn 500 quân Anh tiến hành "cuộc viễn chinh Penobscot". Trong 26 ngày, ông đã đột kích và cướp phá các thành phố Hampden, Bangor, và Machias, phá hủy hoặc thu giữ 17 tàu Hoa Kỳ. Ông cũng đã chiến thắng trong trận Hampden (mất hai người bị giết trong khi Hoa Kỳ có một người chết) và chiếm đóng làng Castine trong suốt phần còn lại của chiến tranh. Hiệp ước Ghent đã trả lãnh thổ này lại cho Hoa Kỳ. Người Anh còn ở lại cho đến tháng 4 năm 1815, trong thời gian đó họ đã thu được 10.750 bảng Anh tiền thuế tại Castine. Số tiền này, được gọi là "Quỹ Castine", đã được dùng để thành lập Trường Đại học DalhousieHalifax, Nova Scotia.[88]

Mặt trận Ngũ Đại Hồ và các vùng Lãnh thổ phía Tây

Thượng và Hạ Canada, 1812

Bản đồ chiến trường Canada năm 1812

Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tin rằng sẽ có thể dễ dàng tràn ngập Canada. Cựu Tổng thống Thomas Jefferson lạc quan gọi cuộc chinh phục Canada là "một vấn đề hành quân". Có nhiều người Mỹ đã di cư đến Thượng Canada sau cuộc Chiến tranh Cách mạng mà chính phủ Hoa Kỳ cho rằng sẽ nhận được sự ủng hộ của họ, nhưng thực tế lại không phải như vậy. Tại Thượng Canada trước chiến tranh, tướng Prévost đối mặt với tình hình bất ổn nên đã phải thu mua nhiều đồ dùng lương thực dự trữ cho quân đội từ phía người Mỹ. Quan hệ thương mại đặc biệt này vẫn được tiếp tục trong suốt cuộc chiến bất chấp một nỗ lực sớm thất bại của chính phủ Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn nó. Ở vùng Hạ Canada có đông dân hơn nhiều, nước Anh được hỗ trợ từ các tầng lớp người Anh có lòng trung thành mạnh mẽ với Đế quốc, và từ các tầng lớp người Pháp, vốn lo sợ cuộc chinh phục của Hoa Kỳ sẽ phá hoại trật tự cũ bằng việc du nhập đạo Tin lành, sự Anh hóa, nền dân chủ cộng hoà và chủ nghĩa tư bản thương mại; và làm suy yếu Giáo hội Công giáo. Dân định cư người Pháp thì lo ngại bị mất khu vực đất đai tốt vốn đang bị thu hẹp vào tay để những người nhập cư có thể sẽ đến của Hoa Kỳ.[89]

Trong các năm 1812-1813, kinh nghiệm quân sự của Anh đã đánh bại giới chỉ huy thiếu kinh nghiệm trận mạc của Hoa Kỳ. Điều kiện địa lý đã quyết rằng các hoạt động quân sự sẽ diễn ra ở phía tây: chủ yếu là xung quanh hồ Erie, gần sông Niagara nằm giữa hồ Eriehồ Ontario, và gần khu vực sông Saint Lawrencehồ Champlain. Đây là trọng tâm của các cuộc tấn công ba mũi nhọn của Hoa Kỳ trong năm 1812. Mặc dù nếu cắt đứt được sông St Lawrence bằng cách chiếm lấy Montreal và Quebec thì sẽ có thể khiến người Anh không thể bảo đảm quyền kiểm soát tại Bắc Mỹ, nhưng Hoa Kỳ lại bắt đầu chiến dịch đầu tiên tại biên giới phía tây do tâm lý phổ biến là cuộc chiến tranh phải diễn ra tại đó, nơi có những người Anh đã bán vũ khí cho người da đỏ chống lại những người định cư.

Người Anh đã sớm giành được một thắng lợi quan trọng, nhờ lực lượng của họ tại đảo St Joseph trên hồ Huron đã được biết về việc tuyên chiến trước quân đồn trú Hoa Kỳ đóng gần đó tại một trạm buôn bán quan trọng trên đảo Mackinac, Michigan. Một lực lượng hỗn hợp đã đổ bộ lên đảo vào ngày 17 tháng 7 năm 1812 và đặt một khẩu đại bác hướng vào đồn Mackinac. Sau khi người Anh khai hỏa phát đại bác đầu tiên, quân Hoa Kỳ vì quá bất ngờ nên đã đầu hàng. Chiến thắng sớm sủa này đã khích lệ dân bản địa, và họ đã di chuyển với một số lượng lớn để đến giúp người Anh tại Amherstburg.

Quân đội Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của William Hull đã xâm chiếm Canada vào ngày 12 tháng 7, với lực lượng chủ yếu gồm các dân quân không được đào tạo và thiếu kỷ luật.[90] Khi đã tiến vào đất Canada, Hull đã đưa ra một công bố ra lệnh cho tất cả người dân Anh phải đầu hàng, hoặc là "những kinh hoàng và tai họa của chiến tranh sẽ đến trước các bạn". Ông ta cũng đe dọa sẽ giết bất kỳ tù nhân Anh ào bị bắt khi chiến đấu bên cạnh người bản xứ. Công bố này đã làm mạnh mẽ thêm sự kháng cự trước các cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Quân đội của Hull quá yếu kém về pháo binh và được tiếp tế quá tồi tệ để có thể giành được những mục tiêu của mình, và đã phải chiến đấu chỉ để duy trì các tuyến liên lạc.

Cái chết của Isaac Brock trong trận Queenston Heights.

Sĩ quan cao cấp của Anh ở Thượng Canada, thiếu tướng Isaac Brock, cảm thấy rằng ông ta cần phải thực hiện các biện pháp táo bạo để trấn an người dân định cư tại Canada, và để thuyết phục người bản địa - những người mà ông ta rất cần để có thể bảo vệ khu vực này - là nước Anh rất mạnh.[90] Ông ta hành quân nhanh chóng đến Amherstburg ở gần mép cuối phía tây hồ Erie với lực lượng tiếp viện và ngay lập tức quyết định tấn công Detroit. Hull, lo ngại rằng người Anh có quân số áp đảo và rằng người da đỏ thuộc lực lượng của Brock sẽ tiến hành cuộc thảm sát nếu chiến sự bắt đầu, nên đầu hàng mà không hề kháng cự tại Detroit vào ngày 16 tháng 8. Biết tin về những cuộc tấn công của dân bản địa do sự xúi giục của Anh tại các nơi khác, Hull đã ra lệnh di tản các cư dân của đồn Dearborn (Chicago) đến đồn Wayne. Sau đoạn đường an toàn lúc đầu, các cư dân này (gồm cả binh lính và thường dân) đã bị người Potawatomi tấn công ngày 15 tháng 8 sau khi mới chỉ đi được có 2 dặm (3,2 km) trong Trận đồn Dearborn.[91] Đồn này sau đó đã bị đốt cháy.

Brock đã nhanh chóng đưa quân sang mép phía đông hồ Erie, nới mà tướng Hoa Kỳ Stephen Van Rensselaer đang chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai vào Canada. Một hiệp định đình chiến (được Prévost sắp xếp với hy vọng việc nước Anh bãi bỏ các Chỉ thị Hội đồng mà Hoa Kỳ phản đối sẽ có thể dẫn đến hòa bình) được ký đã ngăn cản việc Brock xâm nhập lãnh thổ Hoa Kỳ. Khi hiệp định đình chiến hết hạn, Hoa Kỳ cố gắng tấn công vượt qua sông Niagara vào ngày 13 tháng 10, nhưng đã bị thất bại tan tành tại Queenston Heights. Không may cho Anh là tướng Brock lại bị chết trận. Trong khi trình độ quân sự của các lực lượng Hoa Kỳ được cải thiện cho đến tận khi chiến tranh kết thúc, thì bộ phận chỉ huy Anh lại bị suy yếu sau cái chết của Brock. Một nỗ lực cuối cùng trong năm 1812 của tướng Hoa Kỳ Henry Dearborn nhằm tiến lên phía bắc từ hồ Champlain cũng bị thất bại khi lực lượng dân quân của ông từ chối việc phải tiến ra ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ.

Trái ngược với dân quân của Mỹ, dân quân Canada có biểu hiện rất xuất sắc. Những người Canada gốc Pháp thấy khó chịu trước thái độ chống Công giáo của phần lớn người Hoa Kỳ, cùng với những người trung thành với Đế quốc Anh mà đã chiến đấu cho nước Anh trong Chiến tranh Cách mạng, đã phản đối mạnh mẽ cuộc xâm lược của Hoa Kỳ. Mặc dù vậy, có nhiều người ở Thượng Canada là dân định cư mới đến từ Hoa Kỳ và họ không có lòng trung thành rõ rệt với nước Anh. Tuy nhiên, dù có tại đây một số người thông cảm với đội quân xâm chiếm, thì các lực lượng Hoa Kỳ vẫn bị phản đối mạnh mẽ từ những người trung thành với Đế quốc.[92][93]

Tây Bắc Hoa Kỳ, 1813

Tướng William H. Harrison.

Sau khi Hull đầu hàng tại Detroit, tướng William Henry Harrison đã cử làm tư lệnh Binh đoàn Tây Bắc của Hoa Kỳ. Ông liền bắt đầu tiến hành chiếm lại thành phố, nay được phòng thủ bởi lực lượng kết hợp của đại tá Henry ProcterTecumseh. Thế nhưng một bộ phận quân đội của Harrison đã bị đánh bại tại Frenchtown dọc sông Raisin vào ngày 22 tháng 1 năm 1813. Procter để các tù binh lại cho đội một quân canh gác không thích đáng, và họ đã không thể ngăn chặn một số đồng minh bản địa Bắc Mỹ của mình tấn công và giết chết khoảng 60 người Hoa Kỳ, nhiều người trong số đó là dân quân Kentucky.[94] Sự việc trên đã trở nên nổi tiếng với cái tên Vụ thảm sát sông Raisin. Thất bại này đã kết thúc chiến dịch tấn công Detroit của Harrison, và cụm từ "Hãy nhớ sông Raisin!" đã trở thành một khẩu hiệu tập hợp người Hoa Kỳ lại với nhau.

Trận hồ Erie

Vào tháng 5 năm 1813, Procter và Tecumseh tiến hành bao vây đồn Meigs ở bắc Ohio. Quân tiếp viện Hoa Kỳ đến giải vây đã bị người bản địa đánh bại, nhưng đồn vẫn kiên trì cố thủ. Những người da đỏ cuối cùng đã bắt đầu phân tán, buộc Procter và Tecumseh phải trở về Canada. Một cuộc tấn công thứ hai vào đồn Meigs cũng bị thất bại trong tháng 7. Trong một nỗ lực để nâng cao tinh thần người da đỏ, Procter và Tecumseh đã cố gắng đánh chiếm đồn Stephenson, một đồn nhỏ của Hoa Kỳ trên sông Sandusky, nhưng đã bị đẩy lùi với thiệt hại nặng nề, đánh dấu mốc kết thúc của chiến dịch Ohio.

Trên hồ Erie, tư lệnh Hoa Kỳ Oliver Hazard Perry đã chiến thắng trong trận hồ Erie vào ngày 10 tháng 9 năm 1813. Sau trận này, Oliver Hazard Perry đã gửi thư cho William Henry Harrison, bức thư bắt đầu bằng một trong những câu nói nổi tiếng nhất trong lịch sử quân sự của Hoa Kỳ:

"Chúng tôi đã chạm mặt kẻ thù và chúng là của chúng tôi."

Thắng lợi quyết định này của Perry đã bảo đảm kiểm soát hồ này cho Hoa Kỳ, cải thiện tinh thần chiến đấu của người Hoa Kỳ sau một loạt những thất bại, và buộc người Anh phải rút khỏi Detroit. Điều đó mở đường cho tướng Harrison mở một cuộc tấn công khác vào Thượng Canada, mà đỉnh cao là chiến thắng của Hoa Kỳ trong trận sông Thames vào ngày 5 tháng 10 năm 1813, tại đó Tecumseh đã bị giết chết. Cái chết của Tecumseh đã kết thúc hoàn toàn mối giữa người Mỹ bản địa với người Anh trong khu vực Detroit. Việc Hoa Kỳ kiểm soát hồ Erie đồng nghĩa với việc người Anh không thể tiếp tục cung cấp những hàng hóa quân nhu thiết yếu cho các đồng minh bản địa, và là nguyên nhân khiến cho họ từ bỏ cuộc chiến. Hoa Kỳ đã tiếp tục kiểm soát khu vực này cho đến hết cuộc chiến.

Biên giới Niagara, 1813

Isaac ChaunceyJames L. Yeo

Do những khó khăn của việc liên lạc truyền tin trên bộ, nên việc kiểm soát Ngũ Đại Hồ và hành lang sông St Lawrence là rất quan trọng. Khi cuộc chiến bắt đầu, người Anh đã có một đội tàu chiến nhỏ trên hồ Ontario và giành được lợi thế ban đầu. Để khắc phục tình trạng này, Hoa Kỳ đã cho mở một xưởng đóng tàu Hải quân ở cảng Sacketts, New York.[95] Phó Đề đốc Isaac Chauncey chịu trách nhiệm phụ trách một số lượng lớn các thủy thủ và thợ đóng tàu được gửi đến từ New York;[95] và họ đã hoàn thành chiếc tàu chiến thứ hai được đóng tại đây chỉ trong 45 ngày. Tổng cộng, có 3.000 người làm việc trong xưởng đóng tàu, sản xuất được 11 tàu chiến cùng nhiều tàu và tàu vận tải khác nhỏ hơn.

Sau khi giành lại được lợi thế nhờ vào chương trình đóng tàu nhanh chóng của mình, ngày 27 tháng 4 năm 1813, Chauncey và Dearborn đã tấn công thành phố York[95] (nay là Toronto), thủ phủ của Thượng Canada. Trận York là một chiến thắng đầy tai tiếng của Hoa Kỳ, vì tại đó họ đã cướp bóc và đốt phá các tòa nhà Chính phủ cùng với một thư viện.[96] Tuy nhiên Hoa Kỳ đã không chiếm được thành phố Kingston có giá trị chiến lược nhiều hơn đối với việc tiếp tế và liên lạc dọc theo sông St Lawrence của Anh, và vì thế hải quân của họ không thể kiểm soát một cách hiệu quả hồ Ontario hay cắt đứt tuyến tiếp tế từ Hạ Canada của đối phương.

Ngày 27 tháng 5 năm 1813, một lực lượng đổ bộ Hoa Kỳ từ hồ Ontario đã tấn công đồn George tại đoạn cuối phía bắc sông Niagara và chiếm được nó mà không phải chịu thiệt hại nào nghiêm trọng. Tuy nhiên họ không truy kích đối phương rút lui, giúp cho phần lớn quân Anh chạy thoát được và sau đó tổ chức một cuộc phản công trong trận Stoney Creek ngày 5 tháng 6. Đến 24 tháng 6, nhờ có lời cảnh báo trước của một người trung thành với Đế quốc là Laura Secord mà lực lượng nhỏ hơn của Anh và người bản địa đã bức hàng được một đội quân khác của Hoa Kỳ trong trận Beaver Dams, đặt dấu chấm hết cho cuộc tấn công vào Thượng Canada. Trong khi ấy, vào ngày 28 tháng 5 năm 1813, Phó đề đốc James Lucas Yeo, người phụ trách các tàu của Anh trong khu vực hồ đã mở một cuộc phản công, nhưng rồi lại bị đẩy lùi trong trận Sackett's Harbor thứ hai.[95] Sau đó, các đội tàu của Chauncey và Yeo còn giao chiến thêm hai trận bất phân thắng bại, và không bên nào giành được cho mình một thắng lợi quyết định.

Cuối năm 1813, người Hoa Kỳ đã rút bỏ vùng lãnh thổ Canada mà họ chiếm được quanh đồn George. Họ đã thiêu cháy ngôi làng Newark (nay là Niagara bên hồ) vào ngày 15 tháng 12 năm 1813. Người Canada cùng giới chính trị cầm quyền đã nổi giận trước việc có nhiều người dân mất nhà cửa không nơi nương tựa, đã bị lạnh đến chết vì tuyết. Kết quả là quân Anh đã trả thù bằng việc đánh chiếm đồn Niagara ngày 18 tháng 12. Sáng sớm hôm sau, ngày 19, quân Anh và các đồng minh bản xứ đã tràn vào thị trấn Lewiston ở gần đó, đốt cháy nhiều nhà cửa và kiến trúc đồng thời giết hại nhiều dân thường. Khi quân Anh đuổi theo những người dân còn sống ở bên ngoài thị trấn, một lực lượng nhỏ dân bản địa tộc Tuscarora đã can thiệp vào và chặn đứng cuộc truy đuổi, giúp người dân có đủ thời gian chạy thoát về khu vực an toàn. Điều đáng chú ý ở đây là dân Tuscarora đã bảo vệ người Hoa Kỳ trước những người anh em tộc Iroquois và Mohawks của họ, vốn đứng về phía người Anh.[97][98] Sau đó, quân Anh còn tấn công và phóng hỏa thành phố Buffalo vào ngày 30 tháng 12 năm 1813.

Trong năm 1814, cuộc tranh giành hồ Ontario đã chuyển thành một cuộc chạy đua trong việc đóng tàu. Cuối cùng, đến cuối năm đó, Yeo đã đóng xong chiếc HMS St Lawrence, một tàu chiến tuyến hạng nhất, được trang bị 112 khẩu đại bác có ưu thế hơn các tàu của Hoa Kỳ. Thế nhưng chiếc tàu này đã không hề đánh trận nào cho đến hết chiến tranh.[99] Cuối cùng, cuộc chiến trên hồ Ontario đã kết thúc bất phân thắng bại.

St Lawrence và Hạ Canada, 1813

Trận Chateauguay, tranh thạch bản của Henri Julien (1852-1908).

Khu vực nhiều nguy hiểm nhất của người Anh là tại sông St Lawrence, ở đoạn sông tạo thành biên giới giữa Thượng Canada và Hoa Kỳ. Trong những ngày đầu của chiến tranh, vẫn có những hoạt động thương mại bất hợp pháp qua lại giữa hai bờ con sông. Trong mùa đông 1812-1813, Hoa Kỳ đã phát động một loạt các cuộc đột kích xuất phát từ Ogdensburg bên bờ sông phần lãnh thổ Hoa Kỳ, gây cản trở cho việc giao thông tiếp tế của Anh trên sông. Ngày 21 tháng 2, George Prévost đã hành quân qua thị trấn Prescott nằm bên bờ đối diện, mang theo lực lượng tiếp viện cho Thượng Canada. Khi ông rời đi ngày hôm sau, lực lượng tiếp viện đã cùng với dân quân địa phương đã phát động tấn công Ogdensburg. Trong trận này, quân Hoa Kỳ đã buộc phải rút lui. Suốt thời gian còn lại trong năm đó, tại Ogdensburg không hề có quân Hoa Kỳ đồn trú, và nhiều người cư dân Ogdensburg đã liên lạc và trao đổi buôn bán trở lại với thị trấn Prescott. Chiến thắng này của Anh đã quét sạch đội quân chính quy cuối cùng của Hoa Kỳ ra khỏi biên giới Thượng St Lawrence và giúp đảm bảo mối liên lạc của người Anh nối với Montreal.

Cuối năm 1813, sau nhiều lần tranh cãi, người Hoa Kỳ đã mở hai cuộc công kích về phía Montreal. Kế hoạch cuối cùng được thống nhất là cho thiếu tướng Wade Hampton tiến quân lên phía bắc từ hồ Champlain để hợp nhất với lực lượng sẽ xuống thuyền từ cảng Sackett trên hồ Ontario để tiến vào sông St Lawrence dưới quyền tướng James Wilkinson. Điều kiện đường sá tồi tệ và các vấn đề tiếp tế đã làm chậm bước Hampton. Và Hampton lại có mối ác cảm với Wilkinson, nên không hào hứng với việc hỗ trợ cho kế hoạch của ông ta. Ngày 25 tháng 10, lực lượng 4.000 người của Hampton đã bị thất bại tại sông Chateauguay trước đội quân nhỏ hơn của lực lượng hỗn hợp người Pháp-Voltigeurs người Canadangười Mohawk dưới quyền tướng Charles de Salaberry.[100][101] Lực lượng của Wilkinson có 8.000 quân khởi hành ngày 17 tháng 10, nhưng cũng bị thời tiết xấu làm cản trở. Sau khi hay tin Hampton bị chặn đứng, và đang bị một đội quân Anh dưới quyền đại úy William Mulcaster và trung tá Joseph Wanton Morrison truy kích, nên đến ngày 10 tháng 11, Wilkinson đã buộc phải đổ bộ gần Morrisburg, cách Montreal khoảng 150 km. Ngày 11 tháng 11, hậu quân của Wilkinson, ước chừng 2.500 người, đã tấn công lực lượng 800 người của Morrison tại đồn điền Crysler nhưng bị đẩy lui với tổn thất nặng nề. Sau khi biết rằng Hampton không thể mở lại cuộc tiến công, Wilkinson đã rút lui về Hoa Kỳ và cho quân nghỉ ngơi trong 3 tháng mùa đông. Ông ta đã từ chức chỉ huy sau một cuộc tấn công thất bại khác vào một tiền đồn quân Anh ở Lacolle Mills.[102]

Các chiến dịch Niagara và Plattsburgh, 1814

Trận Chippewa.

Đến giữa năm 1814, giới tướng lĩnh Hoa Kỳ, trong đó có các thiếu tướng Jacob BrownWinfield Scott, đã cải thiện mạnh mẽ khả năng chiến đấu và kỷ luật của quân đội. Họ đã mở một cuộc tấn công mới trên bán đảo Niagara và nhanh chóng chiếm được đồn Erie. Winfield Scott tiếp đó lại giành thêm một chiến thắng trước một lực lượng yếu hơn của Anh trong trận Chippawa ngày 5 tháng 7.[103] Một nỗ lực khác nhằm tiến quân xa hơn nữa đã kết thúc bằng một trận đánh ác liệt nhưng bất phân thắng bại tại Lundy's Lane vào ngày 25 tháng 7.[103] Quân Hoa Kỳ bị áp đảo về số lượng đã phải rút nhưng vẫn cố cầm cự được trong cuộc vây hãm kéo dài tại đồn Erie. Quân Anh bị tổn thất nặng nề trong một cuộc tấn công thất bại và bị suy yếu do thời tiết và sự thiếu hụt tiếp tế cho các trận tuyến bao vây của họ. Cuối cùng, người Anh đã từ bỏ cuộc bao vây, nhưng Thiếu tướng Hoa Kỳ George Izard, lúc này đã tiếp nhận quyền chỉ huy mặt trận Niagara, không toàn lực truy kích. Quân Hoa Kỳ bị thiếu lương thực sự trữ, nên cuối cùng đã phá hủy đồn rồi rút lui qua sông Niagara.

Trong khi đó, sau sự thoái vị của Napoleon, 15.000 binh lính Anh đã được điều đến Bắc Mỹ, dưới quyền chỉ huy của 4 viên tư lệnh lữ đoàn có năng lực nhất của Wellington.[104] Non nửa trong số đó là các cựu binh của Chiến tranh Bán đảo và phần còn lại là các đơn vị đồn trú. Prévost đã được lệnh phải vô hiệu hóa sức mạnh của người Hoa Kỳ trên Ngũ Đại Hồ bằng cách thiêu hủy cảng Sackets, giành lấy quyền kiểm soát hải quân tại hồ Erie, hồ Ontario và các hồ vùng Thượng; đồng thời bảo vệ Hạ Canada khỏi bị tấn công. Ông ta đã bảo vệ được Hạ Canada nhưng mặt khác lại thất bại trong việc đạt được những mục tiêu của mình.[105] Cụ thể đến cuối mùa đó ông đã quyết định xâm chiếm bang New York. Dù có lực lượng áp đảo về quân số so với quân phòng thủ Hoa Kỳ tại Plattsburgh, nhưng vì lo lắng về hai bên sườn nên ông đã quyết định là cần phải kiểm soát hồ Champlain trước. Trên hồ, các đội tàu của Anh do thuyền trưởng George Downie chỉ huy và của Hoa Kỳ do Thomas Macdonough chỉ huy tỏ ra ngang sức hơn.

Khi tiếp cận Plattsburgh, Prévost đã trì hoãn cuộc tấn công cho đến khi Downie đến nơi trên con tàu HMS Confiance có 36 đại bác mới được vội vã hoàn thành. Prévost đã buộc Downie phải tấn công sớm, nhưng sau đó lại không thể tiến hành hỗ trợ quân sự như đã hứa một cách khó hiểu. Downie đã thiệt mạng và lực lượng hải quân của ông đánh bại trong trên vịnh Plattsburgh vào ngày 11 tháng 9 năm 1814. Người Hoa Kỳ bây giờ đã kiểm soát được hồ Champlain, và Theodore Roosevelt sau này gọi đó là "trận hải chiến vĩ đại nhất của cuộc chiến". Quân phòng thủ trên bộ do Alexander Macomb chỉ huy cũng giành thắng lợi. Sau đó, trước sự kinh ngạc của các sĩ quan cấp trên, Prévost đã rút lui, nói rằng sẽ là quá nguy hiểm nếu ở lại trên lãnh thổ đối phương sau khi đã mất đi ưu thế về hải quân. Prévost đã bị triệu hồi về nước và tại London, một tòa án quân sự của hải quân đã phán quyết rằng thất bại này chủ yếu là do Prévost đã thúc giục đội tàu tấn công sớm và sau đó lại không thể tiến hành hỗ trợ bằng các lực lượng trên bộ như đã hứa hẹn. Prévost chết đột ngột ngay trước phiên tòa của mình. Danh tiếng của Prévost còn tiếp tục hạ thấp hơn nữa khi người Canada tuyên bố rằng dân quân của họ dưới quyền Brock đã làm được những công việc mà ông không thành công. Tuy nhiên gần đây, các sử gia đã có cái nhìn thoái mái hơn, không đem ông so sánh với Wellington mà với những đối thủ Hoa Kỳ của ông. Họ cho rằng công tác chuẩn bị của Prévost cho việc bảo vệ Canada bằng những phương tiện bị hạn chế là đầy nghị lực, sáng tạo và toàn diện. Và bất chấp lực lượng chênh lệch, ông cũng đã được mục đích chính của mình trong việc ngăn chặn cuộc tấn công của Hoa Kỳ.[89]

Tây Hoa Kỳ, 1813-1814

Sơ đồ bố trí đồn Madison vào năm 1810.

Thung lũng sông Mississippi là biên giới phía tây của Hoa Kỳ vào năm 1812. Vùng lãnh thổ có được sau vụ mua bán Louisiana năm 1803 hầu như không bao gồm một vùng đất định cư Hoa Kỳ nào ở tây sông Mississippi ngoại trừ khu lân cận St. Louis, Missouri cùng một vài đồn quân sự và thương mại. Đồn Bellefontaine, một trạm buôn bán cũ đã được chuyển thành đồn quân của Lục quân Hoa Kỳ vào năm 1804, để làm trụ sở địa phương. Đồn Osage được xây dựng năm 1808 bên sông Missouri là tiền đồn xa nhất ở phía tây của Hoa Kỳ, đã bị bỏ trống vào lúc bắt đầu chiến tranh.[106] Đồn Madison, nằm bên sông Mississippi, nay thuộc bang Iowa, cũng được xây dựng trong năm 1808, đã liên tục bị các đồng minh người Sauk của Anh đánh phá kể từ khi bắt đầu được xây. Tháng 9 năm 1813, đồn Madison đã bị bỏ hoang sau khi bị người bản xứ tấn công và bao vây, với sự hỗ trợ của nước Anh. Đây là một trong số ít các trận đánh diễn ra ở tây sông Mississippi. Black Hawk, thủ lĩnh người Sauk, đã đóng vai trò lãnh đạo trong trận này.[107]

Có ít sự kiện đáng chú ý diễn ra tại hồ Huron trong năm 1813, nhưng việc Hoa Kỳ chiến thắng tại hồ Erie và tái chiếm Detroit đã khiến cô lập người Anh tại đây. Trong mùa đông sau đó, một lực lượng Canada dưới sự chỉ huy của trung tá Robert McDouall thiết lập một tuyến đường tiếp tế mới nối từ York đến vịnh Nottawasaga, nằm trên vịnh Georgienne.[108]. Khi đến được đồn Mackinac cùng với hành tiếp tế và quân tăng viện, ông ta đã phái một đội quân viễn chinh đi chiếm lại trạm buôn bán Prairie du Chien ở xa về phía tây. Cuộc vây hãm Prairie du Chien đã kết thúc bằng một chiến thắng của người Anh vào ngày 20 tháng 7 năm 1814.[108].

Đầu tháng 7 năm 1814, Hoa Kỳ đã điều một đội quân gồm 5 tàu xuất phát từ Detroit đi chiếm lại Mackinac. Một lực lượng hỗn hợp quân chính quy và dân quân tình nguyện đã đổ bộ lên đảo vào ngày 4 tháng 8. Quân Hoa Kỳ đã không thử tấn công bất ngờ, và trong trận Mackinac Island ngắn ngủi, họ đã bị người bản xứ phục kích và buộc phải trở lại tàu. Sau đó họ lại phát hiện ra một căn cứ mới tại vịnh Nottawasaga, và trong ngày 13 tháng 8, quân Hoa Kỳ đã phá hủy các công sự cùng một chiếc thuyền buồm được tìm thấy ở đó. Tiếp đó họ trở về Detroit, để lại 2 tàu chiến phong tỏa Mackinac. Ngày 4 tháng 9, những tàu chiến này đã bị tấn công bất ngờ bởi các xuồng và tàu con của đối phương và đã bị bắt giữ. Cuộc chiến trên hồ Huron đã giúp người Anh kiểm soát được đảo Mackinac.

Quân đồn trú Anh tại Prairie du Chien cũng chống trả một cuộc tấn công khác do thiếu tá Zachary Taylor tiến hành. Trên mặt trận cách biệt này, quân Anh giữ được ưu thế cho đến khi chiến tranh kết thúc, nhờ vào lòng trung thành của rất nhiều tộc người bản xứ vốn nhận được từ người Anh hàng hóa và vũ khí. Năm 1814, quân Hoa Kỳ rút lui sau trận Credit Island trên vùng thượng Mississippi đã thử đóng trụ tại đồn Johnson, nhưng rồi đồn này đã sớm bị bỏ hoang giống như hầu hết vị trí khác trên vùng thượng thung lũng Mississippi.[109]

Sau khi người Hoa Kỳ bị đẩy lui ra khỏi vùng thượng Mississippi, họ đóng giữ miền đông Missouri và khu vực St. Louis. Có hai trận đánh đáng kể diễn ra với người Sauk là trận Cote Sans Dessein vào tháng 4 năm 1815 tại cửa sông Osage thuộc lãnh thổ Missouri, và trận Sink Hole vào tháng 5 năm 1815 ở gần đồn Cap au Gris.[110]

Khi ký kết hiệp ước hòa bình, Mackinac và các vùng lãnh thổ bị chiếm khác đều được trở về với Hoa Kỳ. Chiến sự giữa quân Hoa Kỳ với người Sauk và các bộ tộc bản xứ khác vẫn tiếp diễn đến năm 1817, khi mà chiến tranh đã kết thúc ở miền đông.[111]

Mặt trận miền Nam

Chiến tranh Creek

Bài chi tiết: Chiến tranh Creek

Tháng 3 năm 1814, Jackson đã dẫn đầu một lực lượng dân quân Tennessee, các chiến binh tộc Choctaw,[112] Cherokee, và quân chính quy Hoa Kỳ tiến xuống phía nam tấn công các bộ lạc Creek do thủ lĩnh Menawa chỉ huy. Quân Anh đã cố gắng gửi đồ tiếp tế cho các đồng minh nhưng chúng đã tới quá muộn. Ngày 26 tháng 3, Jackson và tướng John Coffee đã đánh bại hoàn toàn người Creek trong trận Horseshoe Bend, giết chết 800 trong tổng số 1.000 quân Creek đổi lại 49 người chết và 154 người bị thương[113] trong tổng số chừng 2.000 quân Hoa Kỳ và Cherokee. Jackson truy đuổi những người Creek còn sống sót cho đến khi họ đầu hàng. Chiến thắng này đã dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Fort Jackson kết thúc cuộc chiến tranh Creek vào ngày 9 tháng 8 năm 1814. Hầu hết các sử gia đều coi cuộc Chiến tranh Creek là một phần của cuộc chiến 1812, vì người Anh có tiến hành hỗ trợ cho nó.

New Orleans

Bài chi tiết: Trận New Orleans (1815)
Trận New Orleans

Andrew Jackson đã được nghe báo cáo về việc người Anh đang tổ chức tàu bè và quân đội để tiến hành một cuộc viễn chinh quy mô lớn. Người Anh đã thiết lập một căn cứ tại Pensacola, Florida vào tháng 8 năm 1814; và Jackson đã đem 4.000 quân đến chiếm thị trấn này trong tháng 11.[114] Không hay biết về việc Hiệp ước Ghent đã được ký kết, lực lượng của Andrew Jackson đã tiến về New Orleans, Louisiana vào cuối năm 1814. Với 1.000 quân chính quy và từ 3.000 đến 4.000 dân quân, cướp biển cùng các chiến binh khác, cũng như thường dân và nô lệ được điều đến làm việc tại các công sự, ông ta đã xây dựng được một tuyến phòng thủ mạnh ở phía nam thành phố, cách bờ vịnh 240 km về phía bắc. 8.000 quân chính quy Anh do tướng Edward Pakenham chỉ huy đã tấn công vào ngày 8 tháng 1 năm 1815. Trận New Orleans là một thắng lợi vang dội của Hoa Kỳ, tại đây quân Anh chịu thương vong đến 2.000 người: 291 chết (trong đó có cả Pakenham cùng 2 viên phó chỉ huy), 1262 bị thương, và 484 bị bắt hay mất tích.[115][116][117] Hoa Kỳ chỉ thiệt hại 71 người: 13 chết, 39 bị thương, và 19 mất tích. Đây được ca ngợi là một chiến thắng vĩ đại của Hoa Kỳ, và nó đã đưa Jackson trở thành một anh hùng dân tộc, và sau này giúp ông trở thành tổng thống.[55][118]

Alabama

James Wilkinson đã chiếm thành phố Mobile, Alabama từ tay người Tây Ban Nha vào tháng 3 năm 1813, và xây dựng các công sự.

Vào đầu năm 1815 người Anh đã bỏ cuộc tại New Orleans, nhưng lại chuyển sang tấn công Mobile. Trong một trong những hoạt động quân sự cuối cùng của cuộc chiến, 1.000 binh lính Anh đã đánh thắng trận đồn Bowyer vào ngày 12 tháng 2 năm 1815. Ngày hôm sau, khi hay tin về hòa bình đã được ký kết, họ đã rời bỏ đồn và lên thuyền về nước.

Chiến sự sau chiến tranh

Tháng 5 năm 1815, một nhóm đồng minh người Sauk của Anh, không biết rằng chiến tranh đã kết thúc mấy tháng trước, đã tấn công một nhóm nhỏ lính Hoa Kỳ ở tây bắc St. Louis.[119] Những cuộc chiến lẻ tẻ, chủ yếu là với người Sauk, vẫn tiếp diễn tại vùng Lãnh thổ Missouri trong năm 1817, mặc dù không rõ là người Sauk tự mình hành động hay là nhân danh người Anh.[120] Nhiều tàu chiến riêng lẻ vẫn tiếp tục chiến đấu trong năm 1815 và là những lực lượng Hoa Kỳ cuối cùng giao chiến với quân đội Anh.